Tìm hiểu về việc Tạo Công việc Gián tiếp trong Chương trình EB-5

Chương trình Đầu tư định cư EB-5 mang đến cơ hội thường trú tại Hoa Kỳ thông qua khoản đầu tư đáng kể được chứng minh là có nguồn gốc hợp pháp vào các dự án đủ điều kiện và tạo việc làm trên khắp Hoa Kỳ. Cơ hội này có được vị trí ưu tiên trong long các nhà đầu tư nước ngoài như là một phương pháp nhập cư nhanh nhất vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó không phải là không gặp trở ngại, bao gồm cả những lời chỉ trích của giới truyền thông, vốn đã gọi đây là một cách để mua quyền công dân. Vì vậy, hãy giải quyết vấn đề nổi cộm này vì vốn dĩ đây là một quan niệm sai lầm.

Như bất kỳ người tham gia đầu tư EB-5, chương trình chắc chắn không phải chỉ đơn giản là một chương trình chi tiền để tham gia và trên thực tế, nếu không có hướng dẫn thích hợp, nó có thể là một quá trình khá phức tạp và tốn thời gian ngay từ đầu. Một yêu cầu của chương trình có thể đặc biệt khó đáp ứng là tạo việc làm.

Mỗi người nộp đơn EB-5 có hai phương pháp chung để đầu tư: họ có thể đầu tư EB-5 trực tiếp vào một doanh nghiệp thương mại mới (NCE) hoặc chọn đầu tư gián tiếp bằng cách hợp tác với một đặc khu đầu tư EB-5 đủ điều kiện. Phần lớn các nhà đầu tư EB-5 chọn làm việc với một đặc khu vì một số lý do quan trọng, một trong số đó là yêu cầu tạo việc làm đơn giản hơn. “Đơn giản” mà chúng tôi đang đề cập đến là khả năng của các nhà đầu tư vào đặc khu bao gồm các công việc gián tiếp để đáp ứng yêu cầu tạo việc làm EB-5, “gián tiếp” là một từ mở. Những người chỉ trích chương trình đôi khi phản đối việc các công việc gián tiếp được tính vào tổng số việc làm. Nó không thể xác nhận liệu việc làm thực sự có thực sự được tạo ra hay không và do đó liệu khoản đầu tư EB-5 có thực sự hỗ trợ nền kinh tế địa phương hay không.

Chúng tôi cho rằng trọng tâm của những lời phàn nàn (dù ít nhưng có tầm ảnh hưởng) này là sự thiếu hiểu biết về cách thức hoạt động của việc tạo việc làm gián tiếp EB-5 và mục đích của chúng tôi là dập tắt những lầm tưởng này.

Trung tâm liên kết đặc khu EB-5 kết luận TẤT CẢ các Việc Làm tạo ra đều là “Gián tiếp”

Theo các luật liên quan đến chương trình EB-5, bất kỳ công việc nào được tạo ra bởi vốn đầu tư EB-5 mà không phải là công việc diện W-2 tại tổ chức kinh doanh mà nhà đầu tư EB-5 là thành viên đều được định nghĩa là “công việc gián tiếp”. Ngược lại, khi các nhà kinh tế (và những đối tượng khác ngoài ngành EB-5) sử dụng thuật ngữ “công việc gián tiếp”, điều đó bao gồm các công việc được trả lương trực tiếp trong tổ chức tạo việc làm (JCE). Ví dụ sau minh họa rõ hơn sự khác biệt giữa các định nghĩa.

Hãy tưởng tượng một người tham gia chương trình đầu tư EB-5 vào một dự án liên quan đến việc mở một khách sạn. Có vô số công nhân, từ xây dựng đến nhân viên khách sạn, tất cả đều là những nhân viên hiện đang làm việc trên công trình tại khách sạn. Giả sử tất cả công nhân xây dựng đều được trả lương bởi các công ty xây dựng theo hợp đồng. Cũng giả sử các nhân viên tại khách sạn được đưa vào bởi một công ty quản lý khách sạn. Trong trường hợp này, một nhà kinh tế học sẽ xem xét tất cả các vị trí được mô tả là công việc trực tiếp, vì tất cả đều làm việc cho công trình tại khách sạn. Mặt khác, không ai trong số những nhân viên đó làm việc trực tiếp cho chính doanh nghiệp thương mại mới (khách sạn). Vì lý do này, họ được coi là “công việc gián tiếp” theo các yêu cầu pháp lý EB-5.

Khi một người tham gia đầu tư EB-5 chọn một dự án đầu tư trực tiếp, vốn của họ được chuyển trực tiếp vào doanh nghiệp thương mại mới, gấp đôi so với tổ chức tạo việc làm. Nhân viên được thuê và có tên trong bảng lương doanh nghiệp thương mại mới được tính là công việc trực tiếp trong kịch bản đầu tư này. Ngược lại, các nhà đầu tư vào đặc khu đặt vốn của họ vào tay các đặc khu đầu tư, sau đó gộp vốn của tất cả những nhà đầu tư EB-5 vào một quỹ EB-5 chuyên dụng. Mô hình này thường được cấu trúc như một quan hệ đối tác hữu hạn và đóng vai trò là doanh nghiệp thương mại mới được hợp thành từ khoản đầu tư EB-5. Doanh nghiệp thương mại mới này chuyển vốn tập trung vào tổ chức tạo việc làm. Như vậy, bản thân doanh nghiệp thương mại mới không tạo ra bất kỳ công việc trực tiếp nào. Do đó, mọi công việc có trong biên chế cho tổ chức tạo việc làm đều được coi là “công việc gián tiếp” theo quy định của chương trình EB-5, đồng nghĩa tất cả các công việc ở đặc khu đầu tư là “gián tiếp”, mặc dù từ quan điểm của nhà kinh tế, chúng sẽ được phân loại là trực tiếp.

Quan niệm sai lầm rằng công việc gián tiếp chỉ là những công việc thuộc biên chế của các nhà cung ứng doanh nghiệp thương mại mới đang phổ biến đến mức ngay cả các quan chức chính phủ cũng nhẫm lẫn, và một số chính trị gia thậm chí đã soạn thảo các đề xuất chống EB-5 dựa trên những lầm tưởng này.

Vốn Đầu tư vào Đặc khu EB-5 hiển nhiên không thể tạo ra việc làm trực tiếp

Những người bãi bỏ Chương trình Đặc khu đầu tư EB-5 (hoặc những người ủng hộ việc loại bỏ phương pháp tính việc làm gián tiếp của các đặc khu đầu tư EB-5) thường không nhận ra rằng không có cách nào để các nhà đầu tư vào đặc khu có thể tạo ra công việc trực tiếp tạo để duy trì điều kiện thị thực EB-5 nếu họ mất quyền đầu tư đặc khu EB-5. Tại sao không? Hãy khoanh tròn lại định nghĩa chặt chẽ về “công việc gián tiếp” theo luật EB-5 như đã nêu ở trên.

Cách vận hành của khoản đầu tư vào đặc khu EB-5 không cho phép nhà đầu tư tính bất kỳ công việc nào được phân loại là công việc trực tiếp dưới góc độ kinh tế học. Do đó, nếu chương trình Đầu tư vào Đặc khu không được gia hạn, hàng nghìn nhà đầu tư EB-5 hiện đang chờ phê duyệt hồ sơ I-526 sẽ tự động không thể đáp ứng yêu cầu tạo việc làm vì sẽ không có việc làm nào được tính vào. Điều này sẽ đúng ngay cả khi tổ chức tạo việc làm liên kết thuê nhân viên theo biên chế của riêng mình.

Khi Chương trình Đầu tư vào Đặc khu EB-5 gần đến ngày hết hạn (ngày 30/06/2021), giới đầu tư EB-5 tiếp tục ra sức để được gia hạn. Các nhà đầu tư trong ngành tin rằng chỉ có cải cách trên diện rộng mới có thể cứu được chương trình. Tin tốt là một dự luật cải cách EB-5 được đề xuất cũng đang được thảo luận và đồng nghĩa với việc chương trình được gia hạn thậm chí dài hơn trước đây nếu nó được thông qua. Mặt khác, việc chấm dứt chương trình này sẽ vô hiệu hóa hàng nghìn hồ sơ và rất có thể khiến chính phủ Hoa Kỳ hứng chịu một loạt các vụ kiện từ những người tham gia đầu tư EB-5. Tệ hơn nữa, bất kể công việc được tính là trực tiếp hay gián tiếp, một công cụ được chứng minh mang tính hiệu quả trong việc tạo việc làm cũng như kích thích kinh tế tổng thể sẽ trở nên bất hoạt.

Menu