Đánh giá các dự án và lưu ý đến rủi ro nhập cư
Dự án có khả năng hoàn thiện thành công không?
Để dự án hoàn thành như đã vạch ra trong kế hoạch kinh doanh, dự án phải sử dụng vốn đầu tư theo dự kiến, phải thực hiện đúng tiến độ và tránh những chậm trễ không lường trước và phải theo sát chi phí dự kiến.
Một dự án thành công sẽ có kế hoạch tài chính dự phòng nếu không thể kêu gọi khoản đầu tư EB-5 như dự kiến . Mặc dù những nguồn tài chính đó có thể không bao giờ cần đến, nhưng nếu chúng đã được xác định trước đó, thì rủi ro không thể hoàn thành dự án sẽ giảm đáng kể.
Lấy ví dụ, một dự án khách sạn sang trọng có chi phí ước tính là 120 triệu đô la. Nhà phát triển dự án đã nộp đơn vay ngân hàng 80 triệu đô la để được bổ sung vào 40 triệu đô la mà nhà phát triển dự định kêu gọi thông qua các khoản đầu tư EB-5 và các hình thức vốn chủ sở hữu khác. Nếu khoản vay ngân hàng không thể được giải ngân cho đến khi nhà phát triển đã có được phần vốn của mình, nhà phát triển có ba lựa chọn sau: 1) Nhà phát triển có thể đợi đến khi thu thập đủ số vốn EB-5 cần thiết. 2) Nhà phát triển có thể nhận khoản vay bắc cầu cho đủ số vốn cần thiết. 3) Nhà phát triển có thể sử dụng vốn chủ sở hữu bắc cầu để chứng minh cam kết tài chính cho dự án cho đến khi có số vốn EB-5 cần thiết.
Nếu nhà phát triển dự định sử dụng bất kỳ phương pháp nào ở trên để thu được số vốn cần thiết, thì dự án có đủ nguồn vốn bên cạnh khoản đầu tư EB-5 nên vẫn có thể tiến hành nếu bị thiếu một hoặc vài khoản đầu tư EB-5.
Vì các dự án EB-5 rất khó kêu gọi vốn đầu tư EB-5 đủ sớm, đây là vấn đề chung mà nhiều nhà phát triển dự án gặp phải và điều quan trọng là các nhà đầu tư tiềm năng phải điều tra kế hoạch của dự án xem họ có thể tiếp tục hỗ trợ tài chính nếu bị thiếu một hoặc vài khoản đầu tư EB-5.
Dự án có thể tạo và duy trì số việc làm cần thiết không?
Khi đầu tư thông qua một Trung tâm vùng chỉ định, chương trình EB-5 yêu cầu mỗi nhà đầu tư phải tạo 10 công việc có thể bao gồm các công việc trực tiếp, gián tiếp và phát sinh. Những công việc này có thể bao gồm công nhân xây dựng và nhân viên của các công ty cung cấp vật liệu xây dựng, cũng như các công việc được tạo ra từ doanh thu hoạt động. Để giảm rủi ro nhập cư liên quan đến tạo việc làm, các nhà đầu tư nên chọn các dự án đã bắt đầu xây dựng và ước tính tạo ra nhiều công việc hơn thực tế.
Ta lấy lại ví dụ về dự án khách sạn sang trọng ở trên, một dự án như thế này có thể có tổng số công việc dự kiến là khoảng 1.400, và 200 công việc trong số đó sẽ được tạo ra sau khi dự án hoàn thành và khách sạn đi vào hoạt động, còn lại 1.200 công việc được tạo ra trong giai đoạn xây dựng dự án. Với chi phí xây dựng khách sạn là 120 triệu đô la, khi 60 triệu đô la được đưa vào chi phí xây dựng thì một nửa số lượng công việc, tương đương khoảng 700 công việc, sẽ được tạo ra. Nếu nhà phát triển dự án lên kế hoạch kêu gọi 20 triệu đô la vốn đầu tư EB-5, vậy nghĩa là có thể có 40 nhà đầu tư (giả sử đây đều là khoản đầu tư thông qua một Trung tâm vùng chỉ định), và các nhà đầu tư này chỉ cần tạo tổng cộng 400 công việc. Trong kịch bản này, số công việc dự phòng được dự kiến tạo ra là quá đủ, do đó giúp giảm rủi ro nhập cư cho các nhà đầu tư.
Nếu một nhà đầu tư EB-5 tiềm năng muốn đợi dự án hoàn thành nửa chặng đường rồi mới đầu tư, thì rủi ro trên thực tế là không tồn tại, vì số công việc cần thiết được tạo ra tại thời điểm đó đã nhiều hơn mức yêu cầu. Vì vậy, ngay cả khi dự án thất bại và không bao giờ được hoàn thành, thì yêu cầu tạo công việc vẫn sẽ được đáp ứng.
May mắn thay, việc hoàn thành dự án không phải là yêu cầu để được chấp thuận đơn EB-5. Vì vậy, trong trường hợp gặp thiên tai hoặc những trở ngại không lường trước gây cản trở việc hoàn thành khách sạn sang trọng, chẳng hạn như nếu số công việc cần thiết đã được tạo trước khi dự án không thể tiếp tục, nhà đầu tư vẫn được chấp thuận đơn kiến nghị. Do đó, để giảm rủi ro nhập cư, nhà đầu tư nên đầu tư vào dự án đã tạo đủ các công việc cần thiết.
Đọc bản in chi tiết.
Vì các dự án EB-5 cần vốn, các đại lý nhận nhiệm vụ quảng cáo dự án với những nhà đầu tư tiềm năng hầu như luôn nói rằng tất nhiên dự án sẽ tiếp tục bất chấp số lượng vốn kêu gọi từ các nhà đầu tư EB-5. Họ cũng cố nói giảm tầm quan trọng của việc có số công việc dự phòng phù hợp. Vì vậy điều quan trọng là nhà đầu tư phải đọc bản in chi tiết trong các kế hoạch kinh doanh và các thỏa thuận đầu tư. Một số dự án sẽ nêu rõ các quy định về việc hủy bỏ các khoản đầu tư EB-5 nếu họ không thể thu hút đủ nhà đầu tư và chỉ cho phép giải tỏa kinh phí vào dự án sau khi đã có đủ vốn.
Bằng cách trả lời hai câu hỏi này khi nghiên cứu mỗi dự án tiềm năng, nhà đầu tư nhập cư theo diện EB-5 sẽ có thể đầu tư khôn ngoan hơn và giảm rủi ro nhập cư.