Giải trình cho Vùng Lao động Mục tiêu được Chỉ định: Dữ liệu và cách thức mà Nhà đầu tư EB-5 đang sử dụng

Chương trình Đầu tư Định cư EB-5 triển khai cách đây hơn ba thập kỷ, được thiết kế để trở thành cơ hội định cư theo hình thức đầu tư cho công dân nước ngoài trên khắp thế giới. Hai mục đích song song của chương trình là: thu hút những nhân tài giỏi và sáng giá nhất trên toàn cầu và thu hút nguồn vốn nước ngoài rất vào nền kinh tế Hoa Kỳ. Chương trình cấp thẻ xanh Hoa Kỳ cho những nhà đầu tư EB-5 đã đáp ứng các mục tiêu này của chương trình.

Một trong những yêu cầu quan trọng nhất là tạo ra tối thiểu 10 công việc toàn thời gian cho người lao động Hoa Kỳ. Để tối đa hóa kết quả của chương trình, các biện pháp khuyến khích đầu tư vào các khu vực có nhu cầu cao đã được phát triển, cụ thể là số vốn tối thiểu bắt buộc được giảm đi một nửa khi vốn đầu tư chuyển vào các dự án được chương trình phê duyệt trong các vùng lao động mục tiêu được chỉ định (TEA) trên toàn quốc.

Tuy nhiên, Quy định Hiện đại hóa có hiệu lực từ tháng 11/2019 đánh dấu thời điểm các khoản đầu tư EB-5 tiềm năng bỗng nhiên trở nên khó thực hiện hơn. Một trong những quy định của nó đã nâng số vốn đầu tư tối thiểu lên gần gấp đôi. Các dự án không thuộc vùng lao động mục tiêu đã tăng mức tối thiểu từ 1 triệu Đô-la Mỹ lên 1,8 triệu Đô-la Mỹ và đôi với các dự án trong các vùng lao động mục tiêu đã tăng lên tối thiểu 900.000 Đô-la Mỹ so với mức từ 500.000 Đô-la Mỹ như trước đây. Điều này buộc vô số nhà đầu tư EB-5 tiềm năng chỉ giới hạn bản thân trong các dự án thuộc các vùng lao động mục tiêu và khiến vô số nhà đầu tư tiềm năng khác hầu như không thể tham gia.

Vì những lý do nhất định, mức độ phổ biến của các khoản đầu tư vào vùng lao động mục tiêu đã tăng lên đáng kể trong những tháng sau khi thay đổi. Một yếu tố phức tạp của quá trình đầu tư vùng lao động mục tiêu là cơ quan quản lý của chương trình – Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ (USCIS), không phải là người cấp phép vùng lao động mục tiêu.

Như với bất kỳ điều gì khác, rắc rối này mang cả lợi thế và bất lợi. Mặt khác, bản thân các nhà đầu tư phải nỗ lực nhiều hơn cần thiết để phân định vùng lao động mục tiêu, một trong các yếu tố hỗ trợ cho hành trình đầu tư EB-5 vốn đang bấp bênh của mình. Nhà đầu tư cần chuẩn bị bằng chứng khi nộp I-526 petition để chứng minh rằng dự án của họ đủ điều kiện trở thành Vùng lao động mục tiêu. Mặt khác, USCIS không quy định cứng nhắc nào cho phép sự linh hoạt trong việc phân định các vùng lao động mục tiêu.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn cách những người tham gia đầu tư EB-5 thu thập dữ liệu để tính toán chọn vùng lao động mục tiêu, cũng như hai phương pháp tính toán mà họ đang sử dụng để xây dựng các bằng chứng cần thiết.

Hai khía cạnh chứng minh điều kiện là Vùng Lao động Mục tiêu

Nói chung, có hai loại vùng lao động mục tiêu: vùng nông thôn và vùng thất nghiệp cao. Trong khi các khu vực nông thôn dễ xác định hơn do định nghĩa xác định: có ít hơn 20.000 cư dân, việc phân loại các vùng có tỷ lệ thất nghiệp cao cần phải được tính toán thêm.

Các vùng lao động mục tiêu có tỷ lệ thất nghiệp cao được chỉ định dựa trên tỷ lệ thất nghiệp vượt quá mức trung bình toàn quốc ít nhất 150% và có hai phương pháp tính toán được chấp nhận rộng rãi để đạt được tỷ lệ đó. Hơn nữa, có hai nguồn dữ liệu chính mà các nhà đầu tư EB-5 tiềm năng có thể lấy từ khi đầu tư vào vùng lao động mục tiêu được chọn.

Nơi các nhà đầu tư EB-5 lấy nguồn dữ liệu tính toán cho Vùng lao động mục tiêu

Để tránh nhầm lẫn, USCIS không quy định hơn một phương pháp tính toán khác một phương pháp tính toán để xác định tính đủ điều kiện của vùng lao động mục tiêu onào vượt trội hơn Tuy nhiên, cơ quan này có xu hướng ưu ái với các nguồn dữ liệu cụ thể như sau làm cơ sở cho các tính toán của nhà đầu tư:

  • Dữ liệu Khảo sát Cộng đồng Hoa Kỳ (ACS): Được tính toán theo các dữ liệu điều tra dân số và được thu thập lại theo gia số năm năm. Bản dữ liệu công bố gần đây nhất của ACS bao gồm khoảng thời gian 5 năm: từ năm 2015 đến năm 2019 tính đến tháng 01/2021 và có tiêu đề là ACS 15-19.
  • Thống kê Thất nghiệp Khu vực Địa phương (LAUS) của Cục Thống kê Lao động (BLS):Được tính toán theo quận và có thể được sử dụng để thu thập tình trạng Vùng lao động mục tiêu tại các quận hoặc thị trường đủ điều kiện (được gọi là khu vực thống kê đô thị – MSA).

Các tính toán dựa trên điều tra dân số hầu như sử dụng dữ liệu ACS có thể tạo ra vùng lao động mục tiêu, trong khi dữ liệu của BLS phải cần bổ sung dữ liệu ACS trong tính toán để tính toán chính xác hơn về mức độ thất nghiệp tại thời điểm áp dụng.

Mặc dù dữ liệu BLS công bố hàng tháng, số liệu ước tính cũng được công bố hàng năm. Những dữ liệu này thường được ưu tiên hơn dữ liệu hàng tháng đơn giản vì nó gần đúng với thực tế hơn, lý do là các phép tính luôn phải dựa trên “dữ liệu mới nhất” tại thời điểm thẩm định và dữ liệu hàng năm vẫn có giá trị dài hạn hơn. Dữ liệu BLS hàng năm cho năm 2020 dự kiến sẽ được công bố vào tháng 04/2021.

Dữ liệu thuần của ACS so với Dữ liệu Điều tra Dân số kết hợp trong Tính toán Vùng lao động mục tiêu

Lợi thế lớn nhất đối với mỗi nhà đầu tư cá nhân được yêu cầu chứng minh tính đủ điều kiện của Vùng lao động mục tiêu là tùy thuộc vào phương pháp tính toán được sử dụng mà các nhà đầu tư có thể thu được các kết quả khác nhau. Điều này có nghĩa là ngay cả khi khoản đầu tư EB-5 không đủ điều kiện vốn tối thiểu dựa trên một phương pháp tính toán, nó vẫn có thể đủ điều kiện theo cách tính khác. Hơn nữa, việc không đủ điều kiện sau khi tính toán của một nhà đầu tư không tự động cho thấy khoản đầu tư EB-5 của người khác được xem là thỏa điều kiện Vùng lao động mục tiêu. Mỗi nhà đầu tư phải chỉ ra phương pháp tính toán để chứng minh họ thỏa điều kiện chọn vùng lao động mục tiêu và có cách kiểm soát nguồn thu thập bằng chứng đó.

Should calculations derived from ACS data only fail to yield TEA eligibility, the investor may opt to apply the census-share method. In this calculation method, ACS and BLS data are combined for better precision in unemployment estimates. ACS data is compared to more recent BLS data at the county level as a way to derive a more current unemployment rate for a particular census tract.

Vì bộ dữ liệu 5 năm của ACS về tỷ lệ thất nghiệp dựa trên các vùng điều tra dân số, những nhà đầu tư EB-5 được phép giới hạn các tính toán cho vùng lao động mục tiêu của họ đối với dữ liệu ACS. Tuy nhiên, lưu ý rằng việc chọn phương pháp này sẽ bị gói gọn trong dữ liệu xác định tỷ lệ thất nghiệp trung bình trên toàn quốc. Hãy nhớ rằng tỷ lệ thất nghiệp trung bình của khu vực địa phương được so sánh với tỷ lệ thất nghiệp của cả nước.

Nếu các tính toán thu được từ dữ liệu ACS chỉ không đủ đẻ thỏa điều kiện cho Vùng lao động mục tiêu, nhà đầu tư có thể chọn áp dụng phương pháp điều tra dân số kết hợp. Trong phương pháp tính toán này, dữ liệu ACS và BLS được kết hợp để ước tính tỷ lệ thất nghiệp có độ chính xác cao hơn. Dữ liệu ACS được so sánh với dữ liệu BLS mới nhất tại cấp quận là một phương pháp tính tỷ lệ thất nghiệp sát với thực tế một vùng điều tra dân số hơn.

Rắc rối khi sử dụng dữ liệu hàng năm để tính toán Vùng lao động mục tiêu

Bất kể phương pháp tính toán nào, cả hai đều sử dụng dữ liệu trong thời gian từ một năm trở lên để đưa ra ước tính nhằm giúp dự đoán các kích thích kinh tế trong tương lai. Điều này đặt ra một vấn đề: dư chấn của đại dịch toàn cầu vẫn chưa xuất hiện trong dữ liệu ACS hoặc BLS, điều này có thể làm giảm đáng kể tiềm năng của vốn đầu tư EB-5 để giúp xây dựng lại nền kinh tế Hoa Kỳ. Chương trình EB-5 được thiết lập như một phương tiện để kích thích kinh tế cấp địa phương nói riêng và của Hoa Kỳ nói chung, nhưng sự chậm trễ trong việc tiếp cận dữ liệu thất nghiệp này sẽ làm giảm lợi ích mà chương trình đang nhắm đến tại các vùng địa lý bị ảnh hưởng nặng nề.

Những nhà đầu tư EB-5 hiện tại và tương lai có thể dự đoán mức thất nghiệp trong tương lai bằng cách nghiên cứu và so sánh các hậu quả kinh tế do COVID-19, nhưng các quy trình thu thập và phát hành dữ liệu được thiết kế để ngăn chặn ảnh hưởng từ việc xâm nhập vào dữ liệu trong vài năm gần đây. Hầu hết thời gian, việc tính toán vùng lao động mục tiêu chỉ với dữ liệu BLS đơn giản là không khả thi và vì dữ liệu của ACS kéo dài trong khoảng thời gian 5 năm, nó có thể đã lỗi thời so với nhưng sự kiện trong hiện tại.

Do tình hình kinh tế hiện tại ở Hoa Kỳ và tác động suy yếu của COVID-19 đối với việc làm, chúng tôi dự đoán khả năng khác biệt giữa các phương pháp tính toán sẽ chỉ làm tăng giá trị. Hiện tại, các nhà đầu tư lo ngại về việc mất điều kiện tham gia vào vùng lao động mục tiêu, tốt hơn là nên sử dụng phương pháp chỉ sử dụng dữ liệu của ACS và các nhà đầu tư EB-5 tiềm năng có thể sẽ có lợi hơn nhờ phương pháp điều tra dân số khi tìm một khu vực dự án có khả năng sẽ được chọn là vùng lao động mục tiêu trong Tương lai. Điều giống nhau đối với tất cả các nhà đầu tư EB-5 là tầm quan trọng của việc lựa chọn phương pháp tính toán vùng lao động mục tiêu một cách cẩn thận. Mỗi bước đi cẩn thận sẽ giúp họ đạt được mục tiêu định cư cho bản thân và các thành viên gia đình.

Menu