Phương pháp mới để tính toán nhằm thỏa điều kiện là Vùng lao động mục tiêu

Một trong những điều kiện chính của Chương trình Đầu tư Định cư EB-5 là phải tạo ra tối thiểu 10 vị trí việc làm toàn thời gian cho người Mỹ. Một số quy định chính để hoàn thành chương trình định cư theo hình thức đầu tư này thường khá ngắn gọn và không có gì mới mẻ với việc không có ngoại lệ thực sự được áp dụng. Chứng minh các nguồn vốn hợp pháp và đảm bảo khoản đầu tư EB-5 duy trì trạng thái “có rủi ro” trong toàn bộ thời gian đầu tư là hai trong số các quy định đó.

Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách thức và địa điểm mà người tham gia chương trình đầu tư, vẫn có một số kẽ hở trong việc đáp ứng các yêu cầu khác của đầu tư EB-5. Tạo việc làm là một trong số đó, với các yêu cầu dễ thở hơn cho nhà đầu tư khi rót vốn vào Vùng lao động mục tiêu (TEA). Vùng lao động mục tiêu là một khu vực địa lý được chính thức chọn dựa trên tỷ lệ dân số thấp hoặc tỷ lệ thất nghiệp cao. Thay vì chỉ tính các vị trí việc làm trực tiếp từ danh sách trả lương, đầu tư vào dự án vùng lao động mục tiêu có nghĩa là nhà đầu tư có thể đáp ứng yêu cầu này bằng cách tính cả các công việc gián tiếp. Số tiền đầu tư tối thiểu bắt buộc là một yêu cầu nữa với một lộ trình thay thế. Khoản đầu tư tiêu chuẩn cần thiết để tham gia vào chương trình EB-5 là 1,8 triệu Đô-la Mỹ, nhưng khi đầu tư vào một dự án thuộc vùng lao động mục tiêu được chương trình phê duyệt thì có thể cắt giảm một nửa số tiền đầu tư xuống còn 900.000 Đô-la Mỹ.

Việc nới rộng yêu cầu về tạo việc làm và một nửa số tiền đầu tư bắt buộc làm chương trình trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các vùng lao động mục tiêu và làm nổ bật tầm quan trọng của việc xác định xem một dự án có đủ điều kiện là vùng lao động mục tiêu hay không. Nhưng chính xác làm sao xác định được khu vực nào được xem là vùng lao động mục tiêu? Mặc dù khái niệm đơn giản nhưng các tính toán tính trên thực tế có thể rất phức tạp.

Tính toán điều kiện trở thành Vùng Lao động Mục tiêu theo truyền thống có thể rất phức tạp

Đnhị nghĩa về Vùng lao động mục tiêu vốn vốn dễ dàng hơn so với thực tế tính toán vùng lao động mục tiêu của một dự án. Tất cả các vùng lao động mục tiêu được chọn đều liên quan đến địa lý và có hai loại dự án vùng lao động mục tiêu: vùng có tỷ lệ thất nghiệp cao và vùng nông thôn. Mặc dù phần lớn các dự án EB-5 tại vùng lao động mục tiêu đang hoạt động được đăng ký là loại có tỷ lệ thất nghiệp cao, nhưng vùng lao động mục tiêu ở nông thôn lại dễ tính toán hơn. Một nhà đầu tư hoàn toàn có thể sử dụng dữ liệu điều tra dân số gần nhất của Hoa Kỳ để xác định liệu một khu vực có ít hơn 20.000 cư dân hay không. Ngược lại, tính toán vùng lao động mục tiêu có tỷ lệ thất nghiệp thì cao phức tạp hơn nhiều.

Một khu vực đạt chuẩn là Vùng lao động mục tiêu có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn 50% nếu so với mức trung bình toàn quốc. Việc tính toán con số này phải liên quan đến số liệu thống kê thất nghiệp ở mức độ điều tra dân số đáng tin cậy. Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ (USCIS) chỉ chấp nhận bộ dữ liệu từ hai nguồn:

  • Dữ liệu điều tra dân số năm năm của Cơ quan Khảo sát Cộng đồng Hoa Kỳ (ACS)
  • Dữ liệu cấp quận hàng năm của Cục Thống kê Lao động (BLS)

Những nhà đầu tư EB-5 ưu tiên các vùng lao động mục tiêu thông qua điều tra dân số có hai lựa chọn tính toán. Họ có thể sử dụng các ước tính mơ hồ trong năm năm từ ACS hoặc kết hợp dữ liệu ACS trong năm năm với dữ liệu cấp quận hàng năm của BLS. Lựa chọn thứ hai được gọi là phương pháp điều tra dân số kết hợp và nó cho phép nhà đầu tư tính toán với kết quả chính xác hơn.

Bên cạnh các tính toán phức tạp từ nhiều nguồn dữ liệu, số liệu về thời gian từ bất kỳ bên tham gia nào cũng có nguy cơ gây ra những rắc rối trong quá trình thẩm định vùng lao động mục tiêu.

Thời gian có thể ảnh hưởng đến việc thẩm định Vùng Lao động Mục tiêu

Bởi vì USCIS yêu cầu dữ liệu thất nghiệp gần nhất khi nộp đơn I-526 diện đầu tư EB-5, thời gian là yếu tố rất quan trọng khi kết hợp các tính toán. Nếu tỷ lệ thất nghiệp của một khu vực giảm xuống dưới tỷ lệ bắt buộc “cao hơn 50% so với mức trung bình của Hoa Kỳ” sau khi nhà đầu tư nộp đơn I-526, USCIS vẫn sẽ cho phép họ tiếp tục đầu tư với số tiền thấp hơn. Vị trí dự án chỉ đơn giản là phải đủ điều kiện trở thành vùng lao động mục tiêu tại thời điểm nộp đơn đăng ký. Thật không may, những biến động trong dữ liệu trong suốt quá trình lập kế hoạch dự án có thể khiến khoản đầu tư EB-5 có nguy cơ phải tăng mức đầu tư lên 1,8 triệu Đô-la Mỹ như tiêu chuẩn.

Điều đó nói lên rằng có một phương pháp tương mới mẻ để tính toán vùng lao động mục tiêu có thể hữu ích cho những nhà đầu tư EB-5 tiềm năng: phương pháp “trung bình luân phiên”.

Phương pháp tính toán “Trung bình Luân phiên”

Sự khác biệt chính giữa thống kê ACS và BLS là khoảng thời gian dữ liệu được thu thập và lượng dữ liệu được đưa vào mỗi báo cáo. Số liệu của ACS được công bố hàng năm và được hợp nhất trong vòng năm năm. Dữ liệu thất nghiệp của BLS được công bố hàng tháng và phản ánh số liệu trong khoảng thời gian từ hai hoặc ba tháng. BLS cũng phát hành một báo cáo hàng năm vào tháng 4 hàng năm về dữ liệu có trong 12 tháng gần nhất. Hầu hết các nhà đầu tư chọn sử dụng báo cáo hàng năm của BLS để có ước tính tỷ lệ thất nghiệp chính xác nhất. Việc tổng hợp chỉ các dữ liệu từ các dự tính hành hàng tháng của cơ quan từ khoảng thời gian 12 tháng gần đây nhất sẽ thực sự mang lại ước tính chính xác nhất có thể.

Đây là toàn bộ phương pháp tính toán “trung bình luân phiên” và không giống như các nguồn dữ liệu đơn lẻ, nó có thể cung cấp thông tin chi tiết cho khoảng thời gian từ một năm trở lên. Sau những thách thức đặc biệt do kỷ nguyên COVID-19 đặt ra, kiểu đánh giá này đặc biệt hưu ích. Dữ liệu BLS hàng năm gần nhất (tháng 01/2021) vẫn bao gồm số liệu thống kê của năm 2019, mang lại cái nhìn về các điều kiện trước đại dịch. Báo cáo hàng tháng phản ánh một bức tranh tổng thể về những tác động làm suy yếu kinh tế của đại dịch nhanh hơn nhiều so với báo cáo hàng năm và báo cáo tiếp theo sẽ không được phát hành cho đến tháng 04/2021.

Bí quyết của việc sử dụng phương pháp tính toán thay thế này là nhà đầu tư EB-5 hoàn toàn là phải so sánh bộ dữ liệu mới với số liệu thất nghiệp quốc gia trong cùng một khoảng thời gian xác định. Nếu không, bằng chứng này có thể khiến cơ quan xét xử của USCIS từ chối hồ sơ vì dữ liệu được trình bày từ các khoảng thời gian khác nhau (ngay cả khi có các khoảng thời gian trùng lặp) cho vùng lao động mục tiêu không hợp lệ. Các nhà đầu tư cũng cần đảm bảo dữ liệu hàng tháng BLS mới nhất được đính kèm với đơn I-526. Điều này có nghĩa là phải tính lại mức trung bình luân phiên trước khi gửi nếu dữ liệu của tháng tiếp theo được công bố trong quá trình chuẩn bị I-526.

Ít rủi ro hơn khi dùng dữ liệu thất nghiệp trong 12 tháng

Những nhà đầu tư EB-5 xem xét phương pháp tính toán mới này có thể tự hỏi liệu điều kiện vùng lao động mục tiêu có thể được tính bằng dữ liệu dưới 12 tháng vì nó chính xác hơn hay không. Khuyến nghị của chúng tôi là nên dùng dữ liệu 12 tháng. USCIS đã không ban hành bất kỳ hướng dẫn cụ thể nào bác bỏ phương pháp “trung bình luân phiên” này, nhưng thậm chí sự thay đổi nhỏ này cũng tạo thành viễn cảnh mới mẻ trong giới đầu tư EB-5. Rủi ro của bạn sẽ giảm đáng kể bằng cách trình bày dữ liệu càng giống bằng chứng thông thường càng tốt.

Chúng ta biết rằng cơ quan nhập cư đã gián tiếp xem xét phương pháp tính trong một tháng của bản phát hành dữ liệu tháng 03/2020 bằng cách đưa ra một phép tính mẫu trong vòng một tháng mà không chỉ ra cụ thể rằng phép tính mẫu chỉ đang chứa dữ liệu của một tháng. Tất nhiên, điều này không thể tự động được hiểu là cơ quan này chấp nhận dữ liệu được tập hợp trong thời gian ngắn hơn.

Một cân nhắc khác là sự biến động lớn có thể xảy ra trong một khu vực địa lý nhất định từ tháng này sang tháng khác. Vì lý do này, việc không cung cấp dữ liệu tối thiểu trong một năm có thể được coi là số liệu không chính xác về tình trạng thất nghiệp của một khu vực. Ví dụ, bất kỳ giai đoạn nào bao gồm cả đợt bùng phát COVID-19, đều có thể làm nổi bật đáng kể số liệu thất nghiệp có thể không xảy ra hoặc đã từng xảy ra trong dài hạn. Vì phần lớn các đơn I-526 mất hai năm để được xử lý tại thời điểm này, nên việc tính toán sử dụng số liệu trong thời gian ít hơn 12 tháng có thể sẽ không được chấp nhận.

Mặc dù đúng là chính phủ Hoa Kỳ có thể thực hiện sự nhân nhượng nhiều hơn trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế như vậy, nhưng tổt hơn hết là những nhà đầu tư hy vọng được cư trú tại Hoa Kỳ thông qua chương trình EB-5 không nên liều lĩnh vào một canh bạc như vậy!

Menu